
Hôm nay lên GĐ chả học hành gì, tụ tập anh em làm 1 cuộc “Hoa Sơn luận kiếm”. Có người nhắc tới bộ Uất hận thần chưởng, theo như lời thuật chính là dị bản của Quỳ hoa bảo điển. Nay xin post lên đây để hầu chư vị chưa có dịp thưởng thức. Bản này được tái bản có sửa chữa và bổ sung năm 2008:
Vào một ngày cuối thu, khi những chiếc lá vàng cuối cùng còn trôi theo dòng nước, gió lạnh thổi về báo hiệu một mùa đông sắp tới. ĐPBB lang thang một mình, dáng vẻ đìu hiu u uất…Y vừa mới bị đám anh hùng hảo hán trong Nhật Nguyệt thần giáo “ăn hiếp”…Khổ thế đấy, ai bảo hắn đẹp trai…
Hắn buông mình ngồi lên một tảng đá để nghỉ chân….”Giá như có ly rượu lúc này thì hay biết mấy” – hắn tự nhủ. Bổng nhiên, RẦM !!!, hòn đá hắn ngồi đổ nhào qua một bên, làm hắn té cái đùng….”Chắc tại sắp đông, khí trời ẩm ướt…nên mới có cớ sự như vậy”. Hắn đứng dậy phủi quần áo. “Khiếp, hôm nay là ngày gì mà xui thế” – hắn chảnh với chính mình….Rồi vật gì vuông vuông đen đen, làm cho hắn chú ý…
“Quái lạ, sao ai lại để chiếc hộp dưới tảng đá thế này…Chẳng lẽ là bảo vật”. Hix, sinh ra trong cảnh bần hàn, hắn nổi lòng tham, bèn đưa tay mở chiếc hộp. “Quỳ hoa bảo điển”….Hắn đứng sững…Trước mặt hắn là Thiên hạ đệ nhất bí kíp mà người đời hằng ao ước…”Ông trời quả không phụ ta” – “Phát tài rồi”…
Hắn chạy thật xa, thật xa, tới một nơi không ai hay biết, và bắt đầu luyện thiên hạ đệ nhất kì cục bí kíp….
Hắn mở trang đầu tiên, trong đó có ghi
“BÍ KÍP ĐƯỢC CHIA LÀM 4 PHẦN, HÃY LÀM THEO HƯỚNG DẪN TỪNG BƯỚC MỘT. NẾU KHÔNG QUA PHẦN 1, CẤM KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC PHẦN 2, BẰNG KHÔNG KHÔNG SẼ BỊ TẨU HOẢ NHẬP MA”
Hắn gật đầu răm rắp, “Dạ dạ, em biết rồi….”-Trăng vừa lên, hắn bắt đầu mở chương thứ nhất.
CHƯƠNG THỨ 1: TỰ CUNG TRƯỚC KHI LUYỆN QUỲ HOA BẢO ĐIỂN
“Đau lòng, chẳng lẽ từ nay ta sẽ không có cháu truyền con nối sao, ta sẽ không có vợ có con nữa sao….Nhưng đời đối với ta quá bạc, kẻ kẻ người người khinh rẻ ta, ta phải báo thù…thôi kệ, chỉ cần luyện thành công võ công này, ta sẽ trở thành vô địch thiên hạ”
Và hắn đã không còn là đàn ông trong chính thời khắc đó. 2 tuần sau, vết thương đã lành, hắn bắt đầu mở chương thứ 2.
CHƯƠNG THỨ 2: THỰC RA KHÔNG TỰ CUNG CŨNG ĐƯỢC
Như sét đánh bên tai, hắn đứng sững, cười ha hả, rồi quỵ xuống…Khi hắn tỉnh dậy đã là ngày thứ 3. “Dù sao đi chăng nữa cũng không được bỏ cuộc, mọi chuyện đã rồi…” Nhất quyết phải luyện thành công …. Hắn lật chương thứ 3
CHƯƠNG THỨ 3: CÓ TỰ CUNG CŨNG CHƯA CHẮC THÀNH CÔNG
Đầu óc quay cuồng, như muốn nổ tung….Hai hàng nước mắt đầm đìa chảy xuống, miệng cười ha hả, nước miếng bắn tùm lum, trong thật lạ mắt….Lúc đó Tạ tốn đang luyện Thất thương quyền gần đó, mục kích được, nên mới rõ ràng tường tận như vậy.
Hắn não nề, cố nén thương đau, mở chương cuối cùng, cũng là chương cảnh giới cao nhất. Hy vọng vẫn còn trong hắn, một chút…nhưng vẫn là hy vọng….
CHƯƠNG THỨ 4 : TỰ CUNG RỒI THÌ VÀO CUNG LÀM THÁI GIÁM
Chỉ thấy gió thổi lá bay, không gian cuồng loạn, Thiên trường địa cửa đáo trường ai…..Gió thổi mây bay, hư vô là thế, chạy theo danh lợi, rồi cũng bỗng chốc hoá hư không….
Sau một thời gian dài tìm kiếm, mất nhiều công sức, cuối cùng tớ đã tìm được đủ bộ Nghìn lẻ một đêm!

Nói tới Nghìn lẻ một đêm thì chắc chắn ai cũng biết, vì ít nhiều người ta cũng đã đọc một, hai truyện trong bộ này, chưa kể hàng chục bản khác nhau được dịch và xuất bản đầy ra đó. Vì thế cái chuyện vui mừng của tớ xem ra là khó hiểu. Mong mọi người cứ bình tâm nghe tớ giải thích đã.
Nghìn lẻ một đêm vốn là một bộ sách tập hợp truyện dân gian của người Ả rập. Người đầu tiên khiến cả thế giới biết tới bộ sách này là học giả người Pháp Antoine Galland (1646-1715). Ông vốn là người giúp việc cho sứ thần Pháp tại Constantinople (nay là Istanbul – Thổ Nhĩ Kỳ). Do vậy, ông có dịp đi lại nhiều lần ở các nước vùng Tây Á và thông thạo ngôn ngữ, văn hóa khu vực này. Trở về Paris, tình cờ đọc được bản chép tay bảy truyện cổ Ả rập, ông dịch và cho xuất bản. Khi sách sắp in thì dịch giả lại biết những truyện này được rút ra từ “một pho đồ sộ gồm nhiều truyện tương tự, chia thành nhiều tập, đề là Nghìn lẻ một đêm”(1) . Ông nhờ người tìm mua hộ và dịch. Trong các năm 1704-1709, mười hai tập sách lần lượt ra đời, nhận được sự mến mộ của mọi tầng lớp trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Bản của Galland được dịch ra hàng loạt ngôn ngữ khác như Anh, Hà Lan, Đức, Ý, Tây Ban Nha… và trở nên phổ biến ở trên khắp châu Âu. Sau đó có rất nhiều học giả khác đã dịch trực tiếp Nghìn lẻ một đêm từ tiếng Ả rập ra tiếng mẹ đẻ của mình, mỗi học giả sử dụng các nguồn tư liệu khác nhau. Mới nhất, có thể kể đến bản The Arabian Nights: Tales of 1,001 Nights của Malcom C.Lyons và Ursula Lyons, xuất bản tháng 11 năm 2008. Điểm khác nhau cơ bản giữa Galland với những người khác là tuy dịch đủ các truyện, ông lược bỏ những đoạn tán tỉnh, mơn trớn, miêu tả tình dục cùng những câu thơ, lời hát trong truyện mà chỉ giữ lại phần cốt truyện chính thôi(2). Ngoài ra còn một điều khá thú vị là hai truyện rất nổi tiếng Aladin và cây đèn thần, Alibaba và bốn mươi tên cướp vốn không có trong bất kỳ văn bản tiếng Ả rập gốc nào. Galland nói rằng ông nghe những truyện này từ một người ông gọi là Hanna Diab tại Aleppo, Syria.
Đó là thông tin về các bản dịch của nước ngoài. Còn bản dịch ra tiếng Việt thì sao?
Bản tiếng Việt cũ nhất mà tớ được biết là của cụ Trần Văn Lai(3) do Tân Việt xuất bản năm 1942.
Một bản khác được biết đến nhiều hơn là bản của NXB Văn học, gồm 10 tập, xuất bản trong 9 năm liền từ 1982 đến 1989. Năm tập đầu dịch từ bản Contes des Mille et une nuits của Antoine Galland, NXB Frères Garnier – Paris 1982, do Phan Quang dịch. Năm tập sau dịch từ bản Mille nuits et une nuit của bác sĩ J.C.Madrus, NXB Charpentier et Fasquelle – Paris 1925, do nhóm Nguyễn Trác, Đoàn Hồng, Nguyễn Đăng Châu, Tấn Khang dịch(4). Bộ sách này được thực hiện khá công phu và cẩn thận nên dân đọc sách rất thích. Tuy vậy, do có nhiều tập, lại xuất bản trong thời gian dài nên việc tìm được đủ bộ quả là khó khăn. May mắn làm sao, qua một người bạn, tớ không chỉ tìm được cả 10 tập mà sách còn rất mới nữa.
Sau này có rất nhiều bản dịch khác. Trong số đó đáng chú ý hai bản, đều có 10 tập, in khổ nhỏ, một của NXB Văn nghệ, bản còn lại tớ không chắc chắn, hình như của NXB Văn hóa thông tin thì phải. Rất tiếc là tớ chưa bao giờ đọc trọn vẹn 2 bản này mà chỉ được xem qua lúc còn bé nên hoàn toàn không thể đưa ra nhận xét gì nhiều. Tất cả các bản còn lại đều mang tính chọn lọc các truyện hay nhất, và thường sẽ được biên tập để cho trẻ con đọc. Vì vậy giá trị văn học và nghiên cứu hầu như không có.
Đọc đến đây chắc bạn đã hiểu lý do tớ vui mừng đến thế rồi. Tớ chỉ xin bổ sung them một ý nữa thôi. Khi mới đi tìm bộ sách này, tớ có lên amazon check thử. Bản dịch mới nhất của Malcom C.Lyons và Ursula Lyons có giá quá đắt so với một sinh viên, và tuy xuất bản tháng 11 năm 2008, hiện tại sách đã hết. Các bản còn lại đều là chỉ là trích dịch mà thôi. Vì thế việc tìm được một bản dịch đầy đủ, dù là tiếng nước ngoài cũng thật khó khăn.
Chia sẻ cảm xúc thế này có lẽ là dông dài quá rồi. Rất cám ơn bạn đã chịu khó đọc đến hết cái entry này. Thật đáng tiếc vì tớ không có máy ảnh nên chẳng làm thế nào để chụp hình bộ sách của mình cả. Đành mượn tạm hình chụp của nick chuthoong tại diễn đàn buonsach làm hình minh họa.
_________________________________
(1) Theo thư của Galland gửi phu nhân hầu tước O. in ở đầu bản dịch tiếng Pháp
(2) Trong “Nghìn lẻ một đêm” có khá nhiều chi tiết bỡn cợt luân lý, khêu gợi hoặc thách thức những điều cấm kỵ. Antoine Galland trong quá trình biên soạn và dịch đã phải lược bỏ những đoạn quá “nhạy cảm” đối với văn hóa phương Tây thời đó. Mặt khác, cách kể chuyện tuy quyến rũ nhưng cũng khá dài dòng. Chẳng hạn, có khi đôi trai gái đang yêu tán tỉnh nhau hàng vài trang giấy, đại khái chàng trai thì khen cô gái có làn da làm bằng hổ phách ướp mật ong và xạ hương, mái tóc dài và phức tạp không kém gì sông Nil, đôi mắt sâu thăm thẳm như một cái giếng không đáy được được dát bạc và kim cương, cô gái thì thì thấy chàng trai như một vị thần đi đến đâu hào quang tỏa ra đến đấy, cánh tay vừa chắc như đồng, vừa êm như nhung, giọng nói trầm hùng mà ngọt ngào như 999 cái chuông đồng… Còn tình yêu của họ thì, ôi thôi, đẹp như loài hoa xyz nghìn năm mới nở một lần, huy hoàng như ánh dương trong đêm đen, mượt mà như tơ lụa Đamát…(dangphuong – thuvien-ebook)
(3) Bác sĩ Trần Văn Lai là thị trưởng đầu tiên của thành phố Hà Nội thời chính phủ Trần Trọng Kim. Ông được xem là người có công trong việc tìm ra cách đặt tên phố phường Hà Nội một cách hợp lý và khoa học. Tuy nhiên, cũng chính ông là người đã ra lệnh phá bỏ các tượng đẹp của Pháp ở Hà Nội, trong đó có bức tượng Bà đầm xòe ở vườn hoa Cửa Nam. Bức tượng này có hình dáng giống hệt với tượng Nữ thần Tự do ở New York.
(4) Cho đến giờ, tớ vẫn không rõ vì lý do gì mà bộ sách lại được thực hiện như vậy. Tình trạng này trước đây rất hiếm. Chỉ đến bây giờ mới biến thành một vấn đề đáng quan tâm.

Đóng sách, có lẽ bản thân nó cũng không hẳn là một nghề. Tôi không thể tìm nổi thông tin về một hiệu đóng sách lâu đời nào trên mạng. Biển hiệu đóng sổ sách tràn ngập khắp nơi, nhưng có vào mới biết, các hiệu ấy đa số chỉ nhận đóng luận văn. Còn sách cũ thì chào thua. Phải qua một người bạn tôi mới biết tới cửa hiệu Tân Dân, nơi đạt đủ yêu cầu của tôi: làm cẩn thận, đẹp, và có thâm niên. Mặc dù cũng phải đi đến 2 lần mới gửi được sách, nhưng quả là không uổng công. Sách đóng xong vuông vắn, cứng cáp, chỉ thua sách mới ở mỗi điểm giấy đen, chữ mờ hơn. Cầm quyển sách trong tay mà thấy nôn nao khó tả. Có điều lấy được sách xong thì lại nghe được vài mẩu chuyện không đầu cũng chẳng cuối. Chắp nối lại chợt thấy ngậm ngùi.
Bác gái nhận đóng sách thay đổi nhiều quá. Gần 10 năm trước bác còn tư vấn cho khách các loại giấy, loại bìa, cái nào đi với cái nào, cái nào bền, cái nào đẹp…Giờ cái gì cũng đắt đỏ, tiền công không thể tăng quá cao, bác cũng không thích nhận sách cũ. Đóng luận văn, đóng sổ cho các cơ quan nhanh hơn, dễ hơn nhiều. Tỉ mẩn bên mấy quyển sách cũ khâu khâu vá vá quả chẳng phải là lựa chọn tốt. Ấy là chưa kể vì vài cuốn sách cũ mà phải đi tìm màu decal cho hợp với sách, quá là mất công.
Chỉ có cô thứ 3, người trực tiếp đóng những cuốn sách cho tôi là vẫn còn nhiệt tình. Lần đầu tôi đi đóng sách, sốt ruột, cứ 3-4 ngày lại đảo qua một lần. Cô biết thế nên vẫn động viên cho vui chứ không lấy đó làm phiền. Lúc đem sách mẫu ra, cô tần ngần sờ vào dòng chữ mạ mà bảo: Chữ này đúng là của bố cô rồi. Từ lúc ông cụ mất, không còn ai mạ chữ đẹp và cẩn thận nữa. Con trai cụ giờ cũng ít động vào, toàn để cho đám thợ cẩu thả làm. Bây giờ người ta cũng không mạ tay nữa, mạ vi tính nhanh hơn, dễ hơn nhiều, bột mạ là vàng hóa học, làm gì còn bột vàng thật. Thế nên chữ mạ bây giờ vừa xấu, vừa nhanh hỏng. So 2 cuốn sách mạ bây giờ và ngày trước, thấy khác hẳn.
Cô mượn cuốn sách mẫu của tôi cho đám thợ mạ xem mà biết đường. Dù đồng ý, nhưng trong long chẳng mấy tin tưởng. Nếu người ta có ý thức tất đã chẳng làm ẩu đến thế. Mà việc gì phải cẩn thận cho một thứ cũ kỹ xấu xí nhỉ ? Việc gì phải cẩn thận cho một thứ vốn chỉ thuộc về tinh thần là chính ?
Cứ nghĩ lại thấy buồn. Theo nhịp tiến của thời đại, có nhiều thứ bị mai một dần đi, muốn níu lấy mà chẳng thể nào giữ nổi. Sách của tôi, dẫu có nhiều thì cũng sẽ đến lúc chẳng còn để mà đóng. Phong trào chơi sách cũng xuống rồi, liệu còn được bao nhiêu người như tôi, ngày nào cũng lung sục trong các hiệu sách, hít đủ thứ bụi, chỉ để tìm được một tập giấy đen xỉn chữ mờ mờ mà lấy làm vui mừng. Người chơi sách càng ít thì người đóng sách càng hiếm. Trông vào đám bọn tôi, e rằng chẳng đủ mà trang trải.
Đôi khi có những việc muốn mà chẳng thể nào thay đổi….

Phải đến lần thứ hai mua sách ở đây tôi mới để ý mà ngẫm. Chị bán hang bị tật 1 tay, theo tôi nghĩ có lẽ là bẩm sinh. Với cái tay tật như vậy thì đến làm việc cá nhân còn khó nữa là lao động. Và trong số những công việc có thể làm được, chị chọn đi bán sách.
Cái hàng sách của chị, gọi là hàng có lẽ hơi phóng đại, chỉ là một cái bậu cửa mượn của nhà khác, trên bày tầm hơn chục cuốn. Khách vào mua, cứ việc đứng chọn xem thoải mái. Chị ngồi cái ghế gỗ con con bên cạnh, khách chọn xong thì bảo tính tiền.
Tôi thích mua sách ở đây, thứ nhất là vì giá rẻ, rất rẻ, thậm chí có những cuốn tôi cho là quá rẻ, nếu so với giá của các cửa hang sách cũ khác ở Hà Nội, thứ hai là vì sách rất mới. Tuy không thể coi là mới như vừa ra lò, nhưng so với mặt bằng chung thì đây là một trong số ít các cửa hang sách mới như vậy, dù mua về có không đóng bìa cho sách cũng chẳng sao.
Từ cái chuyện sách rất mới này, mới chợt nghĩ hay đây đều là sách lấy từ một tủ sách gia đình nào đó ra. Đặc điểm chung dễ nhận thấy ở các cuốn sách bán tại đây, là hầu hết đều được đóng theo kiểu tập rời chứ không phải theo kiểu khâu chỉ, như càng khẳng định cho ý nghĩ này. Có khi lại chính là từ tủ sách gia đình nhà chị ra cũng nên. Tự dưng lại thấy ngậm ngùi. Mình mua sách từ thư viện nhà người ta về cho thư viện của mình. Lẽ ra cũng chẳng phải nghĩ nhiều đến thế nếu người bán sách không bị tật, đến mức – theo suy đoán của bản than – phải bán cả tủ sách gia đình mình, được tích cóp có lẽ từ đời trước cũng nên. Chỉ vì không có kiếm được việc gì khác mới phải bán sách qua ngày. Sách bán rẻ thế này, liệu mỗi ngày được bao nhiêu, có đủ nổi một bữa cơm hay không ? Hỏi chuyện, chị vui vẻ bao còn 2 bao tải nữa. Chợt nghĩ 2 bao tải, chứ 20 bao tải, rồi cũng hết. Hết rồi thì sẽ ra sao ?
Số phận sách cũ kể cũng gian nan, mua đi bán lại, trao tay người này đến nhà người nọ. Trước giờ tôi không quan tâm lắm nên rất lấy làm lạ khi những cuốn sách có dấu của chủ trước lại được xem là có giá trị hơn, và nhiều người khi bán đi số sách của mình, lại yêu cầu người mua phải xóa các dấu tích của mình trên những cuốn sách đó. Thế nhưng giờ nghĩ lại cũng đúng. Mỗi dấu tích ấy như một mảnh ký ức lưu giữ chút tình cảm của người chủ trước, làm nên một cái hồn khác của cuốn sách, một cái hồn thấm đẫm tình người.
Mua cho chị 80 ngàn tiền sách. Với cái giá quá rẻ, chưa kể những lần làm tròn tiền, tôi thật sự đã quá may mắn khi chỉ bỏ một số tiền nhỏ, so với những lần mua sách khác, nhưng mua được cả một túi nilon đầy. Ra về mà chị cứ cám ơn mãi, trong khi lẽ ra người cảm ơn là tôi mới phải. Có điều, lời nói cứ ứ lại trong cổ họng, không sao thốt ra nổi, chỉ có thể lí nhí câu chào mà ra về…

Rút kinh nghiệm với Charlotte và Wilbur và 12 Monkeys, xem rồi để đó, cảm xúc cứ mờ dần, mãi không viết được, lần này đọc xong Đại gia Gatsby buổi chiều, tối phải ngồi viết luôn.
Một vài suy nghĩ của tớ về cuốn sách này:
1. Dịch giả Trịnh Lữ coi đây là cuốn sách nói về sự thật của giấc mơ Mỹ. Tớ thì nghĩ cần bàn nó rộng hơn một chút trước đã.
Trước hết, rõ ràng giàu có là giấc mơ của mọi người, thuộc mọi dân tộc trên Trái Đất này. Chẳng phải một motif quen thuộc trong truyện cổ tích các nước là một người nghèo, sau hàng loạt biến cố, sẽ trở nên giàu có/ thành vua…và cưới được cô gái xinh đẹp/tiên/công chúa? Đấy, con người ta từ thửơ còn sơ khai, vẫn luôn mơ ước đổi đời đó thôi?!
Thế nhưng có một điều buồn cười là trong rất nhiều tác phẩm văn học từ cổ điển tới hiện đại sau này, những nhân vật mong muốn giàu có, lại thường phải chấp nhận làm những việc không lấy gì làm cao đẹp. Chẳng hạn như gã Dizma trong Đường công danh của Nikodem Dizma làm đủ mọi trò lừa đảo hại người để ngoi được vào giới thượng lưu, thoát khỏi cảnh đói nghèo cùng cực. Hay là Raphael de Valentin trong Miếng da lừa, vì tiền bạc, quyền lực, anh sẵn sang chấp nhận trả giá bằng tuổi đời của mình. Những nhân vật này, nhẹ nhất thì bị xem là phản diện (Dizma), nặng hơn thì sẽ là cái chết (Raphael de Valentin). Hình tượng kiểu ấy có quá nhiều trong văn học. Phải chăng hy vọng đổi đời lại khó đến mức người ta phải trả những cái giá quá đắt cho nó ?
Quay lại với giấc mơ Mỹ. Tớ vẫn nhớ lời thầy dạy Vật Lý hồi cấp III. Ông cho rằng những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ là những người rất nghèo, nhưng cực kỳ can đảm, bởi họ dám mạo hiểm đi tìm miền đất mới thay vì ngồi nhà sống qua ngày. Có thể khời nguồn của giấc mơ Mỹ chính là từ đây. Dịch giả Trịnh Lữ cũng có nhận định tương tự, và ông còn rất công phu khi dẫn ra Tuyên ngôn và Quốc ca Hoa Kỳ để rút ra nhận định rằng Giấc mơ Mỹ là cái hứa hẹn rằng chỉ có ở nước Mỹ lời tuyên cáo hùng hồn ấy mới có cơ hội trở thành hiện thực đối với tất cả những ai có can đảm theo đuổi nó đến cùng; vì chỉ ở Mỹ con người mới có bình đẳng về cơ hội.
Có điều sau đó, ông lại cho rằng cái giấc mơ ấy thật rỗng tuếch, vì cái sự bất bình đẳng về “chuẩn mực nhân cách cơ bản” (lời của truyện). Đoạn này thì tớ không đồng ý. Giấc mơ là những mục tiêu ở rất xa mà con người luôn hướng tới. Vì thế, việc nó có thành hiện thực hay không phụ thuộc vào chính nó cũng như cách mà người ta tìm cách thực hiện. Và điều làm cho một giấc mơ bị vấy bẩn chính là sự bất bình đẳng về “chuẩn mực nhân cách cơ bản”. Còn bản thân giấc mơ, nó đâu thể rỗng tuếch, khi nó mang ước vọng chính đáng của bao thế hệ người.
2. Thú thật là tớ biết Trịnh Lữ muốn dịch The Great Gatsby thành Đại gia Gatsby trước khi sách được xuất bản. Lúc đó quả thật tớ rất bất ngờ và thấy khó chịu với dịch giả này. Trước đây, The Great Gatsby đã từng được xuất bản với tên Con người hào hoa ở Sài Gòn trước 75, sau này lại được xuất bản lần nữa với tên Gatsby vĩ đại. Căn cứ vào hai lần này, tớ, người chưa biết gì về tác phẩm, đoán nhân vật Gatsby này quả có điểm gì đó cao quý thật. Vì thế cái tên Đại gia Gatsby thật sự gây phản cảm cho tớ.
Sau khi đọc tác phẩm, với bản thân tớ, điểm sáng duy nhất trong tính cách Gatsby chính là tình cảm của ông với Daisy. Tình cảm ấy thật sự sâu sắc và cao đẹp. Nó đã chẳng làm ông thay đổi đến vậy đó thôi? Vậy là tớ vẫn đoán đúng. Nhưng cũng chỉ có thế. Với điểm sáng duy nhất ấy, quả là khó mà gán cho Gatsby 2 chữ vĩ đại, hay là cái cụm từ con người hào hoa đầy hoa văn kia. Mặc dù không thật sự đồng ý lắm với từ đại gia mà Trịnh Lữ gán cho, tớ vẫn không tìm ra từ nào thích hợp hơn cả. Tạm thời đồng ý với dịch giả.
3. Đại gia Gatsby quả là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời và được chuyển ngữ bởi một dịch giả cũng thật tuyệt vời. Truyện lôi cuốn bởi văn phong độc đáo của nó, nuột nà, trong vắt như một dòng nước suối mát lạnh chảy vào tận trái tim nóng hôi hổi của người đọc. Tác giả chắc chắn là người có công lớn nhất, nhưng nếu không có sự cẩn thận và tinh tế khi lựa chọn ngôn từ của Trịnh Lữ thì e rằng sự tuyệt vời của truyện sẽ giảm đi đáng kể. Ấy mới là dịch. Phần chú giải lại càng làm người ta thích thú. Ngắn gọn nhưng đầy đủ, chính xác nhưng không lạnh lùng. Mỗi chú giải như chất chứa đầy tình cảm, trăn trở của chính dịch giả, như chia sẻ cảm nhận, kiến thức của ông với người đọc. Như thế có khác gì vừa đọc sách vừa đàm đạo với chính Trịnh Lữ vậy. Thú vị vô cùng!!! Với tấm lòng của một người yêu văn, xin cảm ơn ông – một dịch giả tài hoa.

Sau khi đọc xong Harry Potter, phải tạm nghỉ một thời gian khá lâu tớ mới có thể quay lại với dòng văn học kỳ ảo. Các tác phẩm lớn của dòng văn học này đều khá đồ sộ, cả về quy mô địa điểm, thời gian diễn ra câu chuyện lẫn số lượng các nhân vật cùng những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp. Thường người đọc muốn cảm nhận được buộc phải nhớ tương đối nhiều chi tiết, và phải có cái nhìn tổng thể. Chính vì thế, đọc một tác phẩm kiểu này khá mệt óc, khó mà đọc liên tục nhiều tác phẩm được. Bù lại, mỗi tác phẩm đều là những bản anh hùng ca tuyệt vời, cho người đọc những cảm xúc khó mà quên được.
Bộ truyện lần này tớ đọc là Biên niên sử xứ Prydain của nhà văn Mỹ Lloyd Alexander (1924-2007). Truyện nói về Taran, một người không có địa vị (theo đúng từ trong truyện), không biết cha mẹ là ai, lớn lên trong sự nuôi dạy của vị pháp sư già Dallben. Lấy bối cảnh là cuộc chiến chống lại Chúa tể tử địa Arawn, bộ truyện mô tả sự trưởng thành của Taran, từ khi chỉ là một cậu thiếu niên Phụ-Chăn lợn tới lúc trở thành Đức Thượng hoàng của toàn cõi Prydain.
Truyện có kết cấu khá đơn giản, cách viết trong sáng, dễ hiểu. Người không có nhiều kiến thức về thần thoại xứ Wales và vùng Bắc Âu vẫn có thể hiểu dễ dàng. Tuy vậy, một chút hiểu biết cơ bản sẽ giúp người đọc cảm thấy thú vị hơn. Trừ tập cuối, các sự việc diễn ra theo thứ tự thời gian, không gian. Điều này khiến người đọc không có được cái nhìn tổng thể, làm giảm đi sự hoành tráng của cuộc chiến. Bù lại, theo bước chân Taran, ta lại hiểu rõ hơn về số phận của nhân vật chính, những khó khăn, thách thức mà cậu phải gánh chịu, cùng những trải nghiệm, cảm xúc cậu rút ra được trên bước đường phiêu lưu của mình. Những trải nghiệm ấy đã biến một cậu thiếu niên chưa bao giờ ra khỏi vùng đất mình sinh sống trở thành một chiến binh, rồi vị tướng một quân đoàn tham chiến chống lại Arawn, và cuối cùng là Đức Thượng hoàng, vị vua tối cao trên toàn cõi Prydain. Đây có lẽ là dụng ý của tác giả, tránh cho bộ sách biến thành một câu chuyện miêu tả cuộc chiến một cách đơn thuần.
Mặc dù vậy, bối cảnh câu chuyện vẫn là cuộc chiến giữa toàn cõi Prydain với Chúa tể hắc ám. Do đó, không thể không dành một phần quan trọng mô tả nó. Và phần cuối của bộ sách đã hoàn thành rất xuất sắc vai trò của mình, khi tiếp tục mạch truyện của các phần trước, nói về sự trưởng thành của Taran, đồng thời mô tả thành công cuộc chiến với đúng tầm vóc quy mô của nó. Riêng với phần này, tác giả sử dụng cách kể các sự việc diễn ra dưới góc nhìn của nhiều nhân vật khác nhau. Qua đó, ta cảm nhận được sự sục sôi trong máu từng người lính, sự khẩn trương, cấp bách của tình thế, sự tiêu điều của chiến trường, nỗi đau khổ, tuyệt vọng của những chiến binh khi thất bại, niềm vui khi những tia sáng của sự hy vọng chợt xuất hiện ở cuối cuộc chiến tăm tối.
Tuy nhiên, do cách kết cấu như vậy, truyện có những khuyết điểm rất đáng tiếc. Việc dành nhiều không gian cho Taran khiến những mối quan hệ giữa các nhân vật khác khá mờ nhạt, không rõ ràng. Người đọc vẫn có những câu hỏi không thể trả lời ngay cả khi đã gấp trang cuối của bộ sách lại. Cái chết của những nhân vật chủ chốt trong từng phần diễn ra hơi nhanh, sự đau buồn chỉ là thoáng qua, không đọng lại nhiều cảm xúc trong lòng độc giả. Dù sao thì đòi hỏi này cũng không phù hợp cho lắm với những tác phẩm bao quát toàn cuộc chiến như vậy. Cảm xúc của riêng tớ thôi. Ngôn từ sử dụng trong truyện đơn giản, dễ đọc đối với đa số, nhưng chính vì thế, những ai yêu thích cách sử dụng ngôn ngữ trau chuốt, nuột nà sẽ không được như ý. Lại là một cảm nhận khác mang tính cá nhân.
Nói gì thì nói, xét tổng thể đây vẫn là một bộ truyện hay. Một giải Newberry Honor và một giải Newberry Medal là sự công nhận xứng đáng với bộ sách, và là sự đảm bảo cho một vị trí trên giá sách của những người yêu văn học. Về cá nhân mà nói thì tớ rất thích bộ này. Nó không làm mình mệt óc như khi đọc Harry Potter. Tuy vậy, có lẽ vẫn phải nghỉ ngơi một thời gian trước khi lại tiếp tục với một tác phẩm kỳ ảo khác.
P/S:
Hình trên là minh họa Fflewddur Fflam, do Justin Kunz vẽ, dựa trên trí tưởng tượng và hình ảnh của chính tác giả bộ truyện.
Một vài hình khác cũng do Justin Kunz vẽ:
http://www.justinkunz.com/prydain.html

Đọc sách là một trong số hiếm hoi những sở thích, đam mê của mình tồn tại từ ngày bé đến giờ.
Bắt đầu thích đọc sách từ khi nào nhỉ ? Chịu, không nhớ nổi.
Hồi 5,6 tuổi, hàng ngày được bố đưa đi đón về. Lúc về thế nào bố cũng rẽ vào một cửa hàng thuê truyện gần nhà. Thời kỳ ấy hàng cho thuê truyện kiếm hiệp phổ biến lắm. Thứ truyện này đơn giản, không quá cầu kỳ phức tạp về nội dung và nghệ thuật, lại mang nhiều ước mơ của con người ta, chắc chắn phù hợp với nhu cầu giải trí của giới bình dân hơn các loại sách văn học nhiều. Ấn tượng đầu tiên về sách là như vậy đấy.
Nhà chỉ có 1 giá sách của bố, 6 tầng, cao lắm. Trong ấy đã có đến 5 tầng là sách y học, mỗi tầng trên cùng là văn học. Riêng mình có 1 ngăn con con, đựng truyện mẹ mua cho. Không nhiều lắm, vài cuốn truyện tranh. Đọc đi đọc lại mãi cũng chán. Bắt đầu mò sang sách của bố. Khổ, sách y thì đọc hiểu thế nào được? Thế nên cái tầng 6 kia mới là thứ hấp dẫn nhất. Bé, bắc ghế với không tới, đau khổ lắm, cứ mong cao lên từng ngày. Ai dè đến lúc lấy được sách rồi thì lại đụng phải nỗi khổ khác. Truyện của bố, truyện nào có 1 tập thì may, còn đã là bộ thì y như rằng thiếu. Lúc thì thiếu đầu, lúc thì thiếu đuôi, khi thì mất khúc giữa. Chẳng đọc được bộ gì ra hồn cả. Khi thì biết đầu không rõ kết, khi thì biết kết mà chẳng hiểu nó là gì, có lúc thì biết cả đầu và kết, nhưng không hiểu làm sao từ chỗ này tới chỗ kia. Quả là cái sự bực mình không sao tả nổi.
Lớn hơn nữa, bắt đầu biết lang thang các hàng sách cả cũ lẫn mới. Chỉ xem thôi, tiền đâu mà mua. Học xong là la cà qua các hàng sách để được đọc truyện, nhiều nhất cũng chỉ được một chương một ngày. Sách mới nhiều còn đỡ, sách cũ chỉ có 1-2 cuốn, bị bán mất thì đành chịu, chuyển cuốn khác. Tình trạng đọc sách tuy được cải thiện nhưng vẫn còn quá nhiều lần đau khổ không biết các nhân vật trong truyện rồi sẽ đi đâu về đâu.
Bộ sách đầu tiên, được sở hữu và đọc từ đầu đến cuối là Những người khốn khổ. Nguyên nhân cũng hơi đặc biệt. Trong chỗ sách thừa đầu thiếu đuôi của bố, ấn tượng nhất là cuốn Những người khốn khổ. Có mỗi tập IV thôi. Hồi ấy cũng biết sơ sơ, rằng Hugo là nhà văn nổi tiếng, và bộ kia là một tác phẩm văn học kinh điển. Đọc kết thúc thì buồn ghê. Thế là tò mò, muốn đọc trọn bộ.
Hồi ấy hay đi về với đám bạn, hôm thằng này mai thằng khác. Toàn mua đường là chính. Mục đích thì đơn giản, xem có hàng sách nào không. Công nhận là mình nhạy, đi 1 lần là phát hiện ra cả những hàng kín kín, cả những đứa hay đi đường đó còn không biết. Một lần về qua đường Bưởi, gặp ngay một hiệu sách cũ ở đây, lại có cả tem và tiền xu nữa. Ai hay chơi 2 món sau chắc đều biết cửa hàng này. Sách ở đây cũng khá nhiều, mà tìm được nhiều tác phẩm kinh điển lắm. Phải cái không thể đứng đọc được. Thôi thì hàng ngày cứ qua đó nói chuyện với ông già bán sách và ngắm cho đỡ thèm vậy. Thích nhất là có đủ bộ Những người khốn khổ. Thế là về kì kèo với mẹ, cuối cùng mẹ hứa đến SN sẽ tặng. Giá cả bộ là 80.000, khá rẻ. Có điều hoàn cảnh gia đình lúc ấy khó khăn, nên việc mua bộ này quả là một sự kiện đáng ghi nhớ.
Đến khổ, mua về cũng đâu đã được đọc luôn. Tập I bị mất chục trang. Ông già cũng nói rõ, và có photo các trang thiếu. Nhưng nhiều chỗ mờ quá. Thế là mượn thằng bạn tập I của nó, lọ mọ ngồi tô lại cho dễ đọc. Mà đã tô chả nhẽ chỗ tô chỗ không? Thế là cần cù tô đủ chục trang photo. Đến lúc xong rồi mới có hứng thú thưởng thức tác phẩm…Quả là vất vả. Giờ nghĩ lại vẫn thấy phục mình. Cũng may chỉ có 1 tập …
Mà khi đó đọc chỉ hiểu cốt truyện là chính, chưa cảm nhận được tính nghệ thuật. Nhưng dù sao với một đứa trẻ ít đọc thì vậy vui lắm rồi. Phải đến sau này, khi đã đọc nhiều, mới có thể phân tích sơ sài tác phẩm. Tiếc là vẫn chưa dám đọc lại tiểu thuyết đồ sộ này…Nhưng đó lại là nội dung một câu chuyện khác mất rồi.

Anh – người nông dân nghèo với gánh nặng gia đình và món nợ lớn cần trả. Gã – cầm đầu một băng cướp liều lĩnh, táo bạo.
Anh – tham gia chiến trận mà chẳng lập được công lao gì ngoài việc rút lui và bị đồng đội bắn nhầm đến mức phải cưa một bàn chân. Gã – tay súng thiện xạ, đồng thời lại là một tay vẽ rất đẹp, và luôn mồm trích dẫn Kinh thánh.
Cả 2 gặp nhau lần đầu tiên, khi gã vừa thực hiện xong vụ cướp, còn anh đi tìm đàn gia súc. Không có đấu sung, vì anh đi cùng 2 đứa con trai, còn gã đã lấy được tiền, và chẳng cần phải tàn sát thêm làm gì.
Lần thứ hai, khi anh quá uất ức định bắn chủ nợ, còn gã vừa trải qua những giờ phút tuyệt vời bên cô bồ của mình. Anh lập mưu lừa cho gã bị bắt, rồi nhận việc áp tải gã tới Contention, chờ chuyến tàu 3:10 đến Yuma, chuyến tàu đưa gã tới giá treo cổ.
Công việc ấy cho anh 200$, đủ để anh trả nợ, đủ để gia đình anh được sống yên ổn, nơi cậu con thứ 2 được hưởng bầu khí hậu khô nóng, thoát khỏi những cơn hen quái ác. 200$, quá nhiều, đủ để anh bất chấp mọi hiểm nguy đang rình rập. 200$, quá rẻ mạt so với tự do của gã. Gã sẵn sang trả anh 400, rồi 1000, đơn giản anh để gã ra đi. Nhưng anh không bị mua chuộc, cái anh cần không hẳn chỉ là tiền, mà còn là thứ gì đó nữa, một chiến công thực sự chứ không phải là những lời nói dối lũ trẻ.
Đi với anh, gã hiểu, và gã như đồng cảm được phần nào với anh. Vì thế, gã không tìm cách trố thoát nữa. Cả khi anh bị đàn em bắn, gã vẫn lên tàu, để gia đình anh được nhận 1000$ tiền thưởng. 1000$ ấy sẽ cho họ một đàn gia súc đông đúc, vợ anh đỡ vất vả, và con anh được ăn học tử tế. Quan trọng hơn, anh đã thực sự trở thành anh hùng trong mặt mọi người khi làm được một việc chẳng ai dám: áp tải tên cướp nguy hiểm lên tàu.
P/S: Vô lý nhất ở điểm tàu áp tải tù, mà chả có một ai bảo vệ, chỉ có 1 bác cảnh sát duy nhất, thậm chí không phản ứng gì khi đám đàn em của gã xông ra…

Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ
Trong cơn mưa ban trưa
Thấy hồn mình tách thành hai nửa
Nửa ướt bây giờ, nửa ướt xưa.
Không chính xác lắm so với bài thơ gốc, nhưng mình thích dị bản này hơn.

Kiếm được bài này vui vui, post lại lên đây. Chị em nói chung không nên đọc 
Một dự án phát triển kinh tế – Hợp pháp hóa nghề Phò
Boston, Massachusetts, USA 2001
Abstract : Phò là một nghề có từ lâu đời, vì nhu cầu tất yếu của xã hội loài người. Do đó, có hợp pháp hay không, có được thừa nhận hay không, nghề Phò vẫn tồn tại. Vì vậy, dự án kinh tế này được viết nhằm mục đích phân tích những điểm lợi và hại khi hợp pháp hóa nghề Phò, và vai trò của nghề Phò trong kinh tế và xã hội ở nước ta.
I. Tại sao nên hợp pháp hóa nghề Phò :
Như trên đã dẫn, dù có hợp pháp hay không, nghề Phò vẫn mặc nhiên tồn tại, vì thế, việc hợp pháp hóa nghề Phò sẽ thể hiện sự khách quan trong quá trình phát triển. Ngoài ra, hợp pháp hóa nghề Phò còn đánh dấu một bước tiến bộ quan trọng của chúng ta trong quá trình hội nhập với thế giới trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, vì nghề Phò đã được phát triển ở Trung quốc từ hàng ngàn năm trước (theo Đông chu liệt quốc) và ở Nhật bản khoảng gần 400 năm trước, thời shogun Tokugawa, và hiện nay là nghề hợp pháp ở đa số các nước phát triển như Đức, Pháp, Hà Lan … Thậm chí ở một nước nhà quê như nước Mỹ, nghề Phò cũng hợp pháp ở bang Nevada (đồng chí nào biết bang nào nữa thì bổ sung nhé).
Hội Phụ nữ Việt nam và một số tổ chức bảo thủ có thể lên tiếng phản đối nghề Phò vì vấn đề Văn hóa, thuần phong mỹ tục và việc làm hạ thấp giá trị người phụ nữ. Nhưng tại những nước có nền văn minh lâu đời như Trung quốc và Nhật bản và tại những nước hiện đại, tiên tiến như Đức, Pháp, Hà Lan …, và tại cả những nước phò phò như Mỹ, Thái lan … nghề Phò đều phát triển, chứng tỏ là chả có vấn đề thuần phong mỹ tục, văn hóa quái gì. Còn để đảm bảo không hạ thấp giá trị người phụ nữ, và bảo vệ nguyên tắc Nam Nữ Bình đẳng, chúng ta sẽ tổ chức cả phò Nam, thế là chị em khỏi tị nạnh, thắc mắc.
II. Những ưu điểm của việc Hợp pháp hóa nghề Phò:
- Về tổ chức, an toàn xã hội : Việc hợp pháp hóa nghề Phò sẽ loại bỏ tệ nạn ma cô dắt mối, bảo kê, trộm cắp, lừa đảo của bọn lưu manh và bọn giả danh phò hiện nay.
- Về mặt y tế: Việc hợp pháp hóa nghề Phò sẽ tạo điều kiện chó anh chị em Phò chuyên nghiệp được khám chữa bệnh định kỳ, làm giảm khả năng bị mắc bệnh xã hội và SIDA.
- Về mặt xã hội học, nghề Phò góp phần chứng tỏ và phát triển sự Bình đẳng Nam Nữ, vì có cả phò Nam. Về mặt Tâm lý Xã hội, được thỏa mãn, năng suất lao động, nghiên cứu khoa học sẽ cao hơn, ít stress hơn.
- Về mặt an ninh trật tự : Tệ nạn hiếp dâm, xâm phạm tình dục trẻ em, các tội phạm về tình dục sẽ giảm hẳn, hoặc biến mất, vì có thể tự do chơi phò theo hiến pháp và pháp luật thì ai còn dại gì vi phạm để đi bóc lịch trong trại cải tạo.
- Về mặt kinh tế, lợi nhuận do ngành phò đem lại sẽ rất khổng lồ. Hiện nay nước ta có khoảng 80 triệu dân, theo những tính toán của chúng tôi (một Ph.D. toán tốt nghiệp loại xuất sắc trường Brendeis, Mỹ, một MBA về MIS đang tấp tểnh học Ph.D. Computer Science và một thằng lông bông không có bằng cấp gì, chính là tác giả bài viết này – cách tính phức tạp quá, tôi quên bà nó rồi), sẽ có khoảng 5 triệu dân thường xuyên chơi phò một tuần một lần. Giả sử giá mỗi lần là $10 (tính trung bình, đổ đồng cho các loại phò đắt, phò rẻ), thì thu nhập một tuần là $50 triệu, một năm là $50 x 52 = $2600 triệu, tức là $2.6 tỷ. Đây mới tính tới việc tiêu thụ phò với sức mua nội địa.
- Ngành du lịch sẽ nhờ ngành Công nghiệp Phò sẽ thu hút được một số lượng lớn khách nước ngoài và kiều bào yêu nước. Đây cũng sẽ là một nguồn thu khá lớn, dự tính lên tới hàng chục triệu lượt khách một năm, do đó ngành du lịch, hàng không, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ … cũng phát triển.
- Ngành ngoại giao cũng có thể nhờ Công nghiệp Phò mà phát triển, vì chúng ta sẽ phát hành loại visa Chơi Phò dành cho khách du lịch. Du khách đến Việt nam bằng loại visa khác sẽ không được đi chơi phò.
- Ngành Cao su Việt nam sẽ phát triển vượt bậc, từ chỗ xuất khẩu nguyên liệu thô, lỗ chổng vó sang ngành sản xuất bao cao su và đồ chơi tình dục.
- Thị trường Chứng khoán Việt nam sẽ phát triển lên ít nhất là bằng, nếu không nói là hơn Wall Street ở New York, vì sự ra đời của các tập đoàn Phò lớn đồng nghĩa với việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Phò.
- Ngành Công nghệ Thông tin Việt nam sẽ tìm được thị trường cho phần mềm trong việc quản lý Phò, đặt Phò on-line, giao dịch cổ phiếu Phò, Customer Relationship Management (CRM), Enterprise Resource Planning (ERP), Product LifeCycle Management (PLM) …, nhờ đó vươn lên bằng, và hơn ngành Công nghệ Thông tin Trung quốc, Ấn độ, tiến tới việc bóp chết công nghệ phần mềm Mỹ.
- Ngành giáo dục cũng sẽ có lợi, vì Công nghệ Phò phát triển sẽ đòi hỏi có một đội ngũ Phò chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo cơ bản, có tư tưởng kiên định, trong sáng, vì thế Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể mở các trường trung học dạy nghề Phò, trường Cao đẳng Phò, Đại học Phò, tổ chức thi Master, Ph.D. và Post Doc Phò. Nước ta sẽ là nước duy nhất trên thế giới có loại hình đào tạo này, nên sinh viên từ khắp nơi trên thế giới sẽ xin đến Việt nam du học, lúc đấy thì phải chặt tiền học và tiền visa cho chúng nó SIDA luôn.
- Về mặt lao động và thương binh xã hội : nghề Phò sẽ giải quyết được một khối lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, bao gồm những người trực tiếp làm phò và những dịch vụ gián tiếp như chở phò, đưa đón phò, quét rác, dọn dẹp …
- Nghề Phò còn góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, và tạo không khí lành mạnh cho môi trường xã hội, vì những đồng chí trước đây chơi phò lén lút, hủ hóa bị coi là cán bộ xấu, thì nay có thể Tự do chơi Phò trong khuôn khổ pháp luật , có định hướng … thế là tỷ lệ cán bộ xấu sẽ giảm xuống 0%, vì hiện nay 100% cán bộ đi chơi phò.
Theo những phân tích ở trên, lợi nhuận từ ngành Công nghệ Phò phải đến hơn một chục tỷ đô một năm. Hiện nay, tổng giá trị xuất khẩu của nước ta cũng vào khoảng hơn một chục tỷ. Nếu hợp pháp hóa nghề Phò, thì chả cần đầu tư, ưu đãi, chả cần vay vốn ODA, ODP gì cả, chúng ta thoắt một phát, tăng tổng giá trị thu nhập lên gấp đôi. Chúng ta dự định đến năm 2005 sẽ tăng giá trị xuất khẩu phần mềm lên $500 triệu, và tự dối bản thân là hiện nay đã xuất khẩu được $200 triệu, nhưng thực ra là nói láo, vì chúng ta xuất khẩu được cái quái gì, trừ WinGis ? Gia công thì cả công ty FPT (tự coi là công ty lớn nhất Việt nam) là một năm mới được 50 ngàn, không bằng một thằng oắt con Ấn độ. Thế mà mè nheo đòi ưu đãi với chả giảm thuế. Trong khi đấy, chỉ cần một chữ ký hợp pháp hóa ngành Phò, thì chúng ta có ngay hàng chục tỷ đô một năm, lại tạo thêm bao nhiêu công ăn việc làm cho người lao động, ngay cả trong ngành Công nghệ Thông tin. Nói gì thì nói, đào tạo một Phò chuyên nghiệp vẫn rẻ hơn đào tạo một MCSD nhiều.
Nói đi nói lại, tôi chưa tìm ra Hợp pháp hóa Phò thì có gì xấu cả. Đồng chí nào tìm ra thì đăng lên đây nhé.
Chúng ta sẽ cùng nhau đoàn kết, nhất trí, đóng góp trí tuệ tập thể để xây dựng một ngành kinh tế mũi nhọn, làm động lực thúc đẩy nền kinh tế nước nhà, làm cho non sông Việt nam trở nên vẻ vang, dân tộc Việt nam sánh vai các cường quốc năm châu …
Bài này viết năm 2001, nên nhiều con số không còn chính xác. Đại khái là Công nghệ Phần mềm Việt nam cũng có nhiều bước tiến đáng kể, nhưng không bằng Công nghệ phò. Cứ so sánh số lượng phò mua ô tô và lập trình viên mua ô tô ở Việt nam là rõ. Đấy là nghề phò còn chưa hợp pháp, và nghề lập trình viên là hợp pháp. Bây giờ mà hợp pháp hóa nghề phò, thì GDP phải tăng 20 lần.