1. Trang chủ

    image
    Trang chủ
  2. Ảnh

    image
    Ảnh
  3. Bài viết

    image
    Bài viết
  4. Về tôi

    image
    Về tôi
  5. Liên kết

    image
    Liên kết

Danh ngôn sống đẹp

Pu Pu - Kal Kally - Seperator

Chỉ những người đã học được quyền năng của sự chân thành và cống hiến vị tha mới trải nghiệm được niềm vui sâu sắc nhất của cuộc đời: sự viên mãn.


Only those who have learned the power of sincere and selfless contribution experience life's deepest joy: true fulfillment.


Tony Robbins

 124 người thích      Thích

Danh ngôn hành động

Pu Pu - Kal Kally - Seperator

Thế giới này có thói quen dọn chỗ cho người có hành động cho thấy anh ta biết mình đang đi đâu.


The world has the habit of making room for the man whose actions show that he knows where he is going.


Napoleon Hill

 2 người thích      Thích

14/11
2009

Vô tình tìm được bài này. Mặc dù không phải dân Chuyên Ngữ, nhưng nghệ thuật thì làm gì có biên giới chứ :) Chỉ tiếc là không thể hiểu hết cảm xúc của tác giả thôi :)

Chuyên Ngữ  tiến


Trường cũ xa rồi Chuyên Ngữ ơi
Nhớ về người ấy, nhớ chơi vơi
Giảng đường đại học, ôi buồn ngủ
Sáng đến nghe thầy mắng xơi xơi
Thức đêm, mất ngủ, thức khi ngủ
Vội vã ôn thi cả tháng trời
Tiền đóng quĩ này rồi quỹ nọ
Nhà thầy Sức bền mưa xa khơi…
 


Anh bạn căm hờn: không đóng nữa
Đằng nào tao cũng cấm thi rồi
Chiều chiều anh ấy đi đá bóng
Ban đêm lại đến lớp học ngồi 
Nhớ điểm Chuyên Ngữ cao vời vợi
Học bổng đầy tay, ăn chè thôi.


Sân bóng mình cắm trại qua đêm
Kìa Lan xiêm áo tự bao giờ
Đàn điện man điệu nàng rú, giật 
Nhạc về Khoa Pháp xây hồn thơ


Người lên đại học mùa thu ấy
Có thấy trường ta đổi thay gì
Có nhớ dáng người trên xe đạp
Trôi dòng nước lũ yên đong đưa


Chuyên Ngữ thầy Thung không mọc tóc 
Cô Chung dạy Hóa dữ như Hùm
Thầy Toàn gửi mộng nơi đất Pháp 
Cô Lan có nước hoa rất thơm
Rải rác quanh trường vài quán cóc
Thầy Minh trồng rất nhiều cây xanh
Đứa nào mà khẽ tay tựa phải
Chú Khanh gầm lên khúc độc hành


Chuyên Ngữ người đi bao hẹn ước
Đường lên đại học chẳng chia phôi
Ai về Chuyên Ngữ mùa xuân ấy
Trông vào lớp cũ, nhớ chẳng nguôi…

Đã khá lâu tôi ít chú ý đến các sách của Kim Đồng. Một phần vì mình không còn ở độ tuổi mà sách của Kim Đồng nhắm đến, phần khác vì không thích cách biên tập của NXB này. Do vậy tôi biết đến cuốn sách qua một cái duyên khác. Bạn tôi chính là dịch giả cuốn Krabat và cối xay phù thủy này. Được anh giới thiệu về cuốn sách từ khi bắt đầu dịch, quyết định sẽ mua một bản, vừa là ủng hộ bạn, đồng thời cũng tin vào sự lựa chọn và khả năng chuyển ngữ của anh.

Ấn tượng đầu tiên về cuốn sách khá tốt, dù sao cũng là sách có bản quyền hẳn hoi. Bìa in nhũ bóng loáng, tên sách dập nổi trông bắt mắt. Giấy sách dầy, màu trắng ngà. Chữ in bằng thứ font dễ đọc, không quá cầu kỳ nhưng vẫn đẹp. Riêng về mặt hình thức có thể nói đây là cuốn sách làm cẩn thận, chi tiết, chứng tỏ sự đầu tư công sức của những người thực hiện. Cầm một cuốn sách như vậy ai chẳng muốn đọc.

Tất nhiên, một cuốn sách hay không phải ở cái bìa. Cái khiến người ta giữ nó trên giá sách hay cho ra hàng sách cũ là ở nội dung. Về mặt này, cuốn sách hoàn toàn xứng đáng với những giải thưởng người ta đã trao cho nó.

Một vài thông tin trên bìa cho ta biết tác giả đã mất 10 năm để hoàn thành cuốn sách. Với một thời gian dài như vậy, hẳn mọi người sẽ mong chờ một câu chuyện hoành tráng nhưng không kém phần chi tiết với các tuyến nhân vật đan xen nhau một cách phức tạp. Và người ta tự hỏi, làm thế nào tác giả có thể thực hiện được điều này trong một cuốn sách dày chưa đến 300 trang? Bất cứ ai nghĩ vậy hẳn sẽ thất vọng. Đơn giản, đó là từ chính xác nhất có thể mô tả về Krabat và cối xay phù thủy. Cá nhân tôi, khi đọc sách, cảm thấy như đang đọc một câu chuyện dân gian. Hầu hết các truyện cổ dân gian mà tôi biết đều khá đơn giản, xây dựng trên những tình huống trực tiếp và không đòi hỏi tính logic cao. Chẳng hạn, một con quỷ trong không cần phải có nguồn gốc rõ ràng. Nó chỉ đơn giản là ở đó, gây ra tai họa và cần phải diệt trừ. Những vị thần sẽ giúp đỡ nhân vật chính thường vì những lý do hết sức chung chung như nghèo mà tốt, giúp đỡ người khác…, những điều mà đa phần người tốt đều sẽ làm…Krabat và cối xay phù thủy được viết theo cách như vậy. Chẳng ai biết về nguốn gốc cái cối xay và lão thợ cả, cũng chẳng ai hiểu rõ vì sao lại có cái cam kết hiến mỗi giao thừa một mạng người của lão thợ cả và Đức cha. Mà có lẽ đơn giản nhất là tình yêu của Krabat và cô lĩnh xướng. Họ chưa bao giờ nói chuyện một lần nào, ấy vậy mà Krabat đem lòng yêu cô chỉ nhờ nghe giọng hát, để rồi khi cậu thổ lộ, cô cũng đáp lại như thể trước kia đã biết rõ cậu vậy. Tình yêu ấy tưởng như hời hợt, nhưng nó mạnh đến nỗi cô lĩnh xướng sẵn sàng liều mạng để đem lại tự do cho Krabat. Nó khiến cô nhận ra cậu dù đang bịt mặt, bởi cô cảm nhận được sư lo lắng Krabat dành cho cô. Tình yêu của hai người đã đem lại tự do cho không chỉ Krabat mà tất cả những người thợ phụ trong cối xay phù thủy. Phải, trước đó Krabat và Juro Tồ đã tập luyện rất nhiều phép thuật để chống lại lão thợ cả, nhưng rốt cuộc, chẳng cần đến một phép thuật gì, cô lĩnh xướng cũng đã làm giải phóng cho Krabat. Có nhiều người cảm thấy hụt hẫng khi câu chuyện kết thúc, vì rốt cuộc bao nhiêu sự chuẩn bị của Krabat là thừa, nhưng tôi thì không. Cách kết này chẳng phải là cách đẹp nhất sao ? Vượt trên tất cả, tình yêu chẳng phải chính là phép thuật mầu nhiệm nhất sao?

Đọc Krabat và cối xay phù thủy đem lại sự dễ chịu mà lâu lắm rồi tôi mới tìm được. Không phải ghi nhớ về hàng đống thông tin, về những mối quan hệ chồng chéo phức tạp. Nó giống như một cuộc dạo chơi bằng thuyền, cảnh vật xung quanh từ từ trôi qua trước mắt, còn người xem cứ việc chậm rãi mà hưởng thụ tất cả.


Truyện hài, cũng giống các thể loại khác, luôn mang chút đặc tính dân tộc nào đó của tác giả câu chuyện. Vì thế truyện hài của các nước đều khác nhau. Mình thích nhất là hài kiểu Pháp và hài kiểu Mỹ. Hài kiểu Pháp nhẹ nhàng, thâm thúy, thường mang tính châm biếm, nói cách khác là kiểu hài bác học, khá giống tính cách dân Pháp, lãng mạn, ít thực tế và nhiều lý thuyết. Hài kiểu Mỹ lại trực tiếp, có gì đó hơi thô thiển, đúng kiểu của một dân tộc thực tế, bận rộn. So sánh thì mình thích kiểu Pháp hơn, một phần vì nhẹ nhàng, tinh tế hơn, và phần nữa là vì đọc vài lần vẫn cười được, còn kiểu hài kia thì chỉ 2,3 lần là thấy bình thường rồi. Nói theo tiếng Anh thì hài kiểu Pháp là humour, còn hài kiểu Mỹ là comedy vậy. Tất nhiên ở đây chỉ xin nói về đa số, chứ chắc chắn không phải tất cả. Ai dám bảo nhẹ nhàng, tinh tế là đặc quyền của người Pháp, còn thô thiển chỉ có mình người Mỹ chứ?

Đọc qua đoạn mở đầu này, chắc ai cũng nghĩ mình sẽ làm một bài viết phân tích kỹ lưỡng về hai kiểu hài. Đáng tiếc là trình độ của mình chưa đến mức ấy. Vốn không muốn viết đoạn mở đầu như vậy vì nó qua to tát so với những gì tiếp theo, nhưng vì là cảm hứng nên vẫn giữ nguyên không bỏ. Bây giờ mới xin phép đi vào mục đích chính của bài viết lần này, sơ qua cảm nhận về hai series truyện hài của Mỹ dành cho thiếu nhi do Nhã Nam phát hành gần đây là Junie B.Jones và Nhật ký Ngốc xít. Truyện của Pháp xin phép để vào lúc khác.

Đầu tiên là Junie B.Jones. Trời ạ! Cứ nhắc đến cô bé mẫu giáo này là lại tiếc số tiền đã bỏ ra mua 2 tập truyện về. Công tâm mà nói thì series này có nhiều truyện khá, nhưng mình ghét cái cách cô bé hét toáng lên với tất cả mọi người. Có nhiều cách để biến mình thành trung tâm vũ trụ, nhưng làm người khác chú ý bằng cách cố nói thật to thì quả là một lựa chọn tồi. Chính vì thế mặc dù mình chỉ cố gắng đọc xong được cuốn đầu là đành cho truyện vào danh sách cần thanh lý mà không đủ kiên nhẫn đọc tiếp tập 2. Đôi lúc tự hỏi có phải mình cổ hủ, khó tính không, nhưng suy cho cùng thì chọn sách để đọc là do ý thích cá nhân, sao lại phải nghĩ ngợi về chuyện người khác thích mà mình thì ghét chứ.

Tiếp đến là Nhật ký ngốc xít. Cuốn này thuộc dạng bất khả xâm phạm vì hai đặc điểm quan trọng của nó:

Một là, nó do superman mua tặng. Vì thế dù hay hay dở, dù muốn hay không thì vẫn cứ phải giữ sách lại (thực ra nếu muốn thì chắc cũng có cách để thuyết phục thôi).

Hai là, sách có chữ ký của dịch giả đề tặng đích danh mình. Giới chơi sách từ xưa đến giờ ngoài việc cố kiếm các bản cổ, bản hiếm ra, còn cái thú sưu tập bản có chữ ký, thủ bút của tác giả, dịch giả…cuốn sách. Vậy kể ra thì cuốn này cũng có thể coi là quý được rồi (Nói thêm về chuyện này một chút. Cá nhân mình cho rằng trừ những người quá khó tính ra, còn thì ai chẳng muốn người ta ghi nhận giá trị những tác phẩm của mình, bất kể là sáng tác hay dịch. Vì thế việc xin chữ ký, thủ bút có thể coi là đôi bên cũng có lợi, tác giả thì cảm thấy mình được công nhận, còn người mua sách lại có một bản đặc biệt). Quan trọng hơn, chữ ký này là do chính Superman xin cho mình. Đây là vấn đề chính khiến cho việc xử lý cuốn sách trở nên khó hơn thường lệ.

May mắn thay, Nhật ký Ngốc xít lại thuộc dạng những cuốn sách dễ được quyết định số phận. Cũng là nói về một cô bé, nhưng là học cấp II chứ không phải mẫu giáo như Junie B.Jones. Có lẽ vì thế nên cách gây cười của Nhật ký Ngốc xít tuy thô nhưng không quá mức như Junie, thậm chí truyện khá dễ thương khi xây dựng nhân vật chính nhẹ nhàng, hơi tự ti, cũng đầy những thắc mắc, suy nghĩ ngớ ngẩn, cũng thích những người đẹp trai, sống trong gia đình có vẻ quái dị với một ông bố thật thà, một bà mẹ nấu ăn dở khủng khiếp và một con chó săn thỏ quái dị. Đọc Nhật ký Ngốc xít có cảm giác dễ chịu, thoải mái hơn đọc Junie B.Jones, mặc dù trong ấy cũng đủ cả hỉ nộ ái ố (kiểu trẻ con). Mình đọc trong thời gian khá ngắn, ngắn hơn hẳn so với Junie B. Vui nhất là ông anh đọc xong thì thằng em cũng muốn đọc, kể ra cũng phải, nhồi mãi các thứ nặng nề vào đầu thì phải có gì đó nhẹ nhàng, vui vẻ trong lúc nghỉ ngơi giữa chừng chứ. Xem thế thì vai trò của truyện hài cũng không thể xem nhẹ được!


Sau thời gian chờ đợi khá lâu, cuối cùng cuốn sách tiếp theo của Harlan Coben – Người hùng trở lại (tựa gốc làPromise me) – đã xuất bản. Thật khó mà mô tả cảm xúc của tôi khi nhìn thấy cuốn sách, một chút thỏa mãn, một chút hoan hỉ, một chút hồi hộp. Suy nghĩ duy nhất của tôi lúc ấy là phải sở hữu một cuốn ngay lập tức.

Từ trước đến nay, ngoài Conan Doyle, chưa có một nhà văn viết truyện trinh thám nào khiến tôi như vậy, nhưng ấn tượng từ hai cuốn Đừng nói một ai và Người vô tội đủ để khiến Harlan Coben trở thành người thứ hai làm được điều này. Với cuốn sách mới nhất, vẫn là lối dẫn chuyện hấp dẫn, lôi cuốn, vẫn là một câu chuyện đầy sự bí ẩn và bất ngờ đến trang cuối cùng, Người hùng trở lại không làm tôi thất vọng.

Lần này, Harlan Coben đưa người đọc theo chân nhân vật chính trên đường tìm kiếm một cô gái mất tích. Con đường ấy kết nối những người tưởng như chẳng lien quan gì đến nhau vào mối quan hệ chằng chịt, đi vào ngõ ngách ảm đạm trong tâm hồn những kẻ tưởng chừng hạnh phúc nhất, phơi bày những sự thật đau lòng. Từ từ, cái xã hội đẹp đẽ ấy bị bóc trần từng mảng, để lộ ra sự tối tăm, tuyệt vọng của nó.

Nhưng chẳng lẽ lại như vậy, chẳng lẽ không thể cứu vãn gì nữa ? Không, những gì giả tạo cần phải gột sạch để lộ ra bộ mặt thật, nhưng đó đâu phải tất cả. Vẫn còn nhiều những mảng màu tươi sáng, ấm áp khác rải rác đây đó trong bức tranh toàn cảnh. Ở đó, niềm tin vẫn còn, nhờ vào đó, con người vẫn đang sống và tiến về phía trước.

Một cuốn truyện tuyệt vời, xét ở cả khía cạnh trinh thám lẫn nhân văn của nó. Nói những lời sáo rỗng sẽ chỉ làm giảm hứng thú với cuốn sách mà thôi. Bạn hãy đọc và có cảm nhận của riêng mình. Nếu bạn có thể dứt khỏi cuốn sách giữa chừng thì bạn quả là đáng khâm phục. Riêng tôi, tôi buộc phải đọc xong nó trước khi có thể toàn tâm toàn trí làm việc khác được. 


Có lẽ với đa số những người khoảng tuổi mình, Tây du ký là chiếm một vị trí quan trọng trong ký ức tuổi thơ. Mình biết đến Tây du ký đầu tiên qua bộ truyện tranh do NXB Kim Đồng ấn hành. Bố mẹ cũng không mua được đủ, chỉ tới tập 20 thôi. Cứ trước khi đi ngủ là được mẹ đọc cho một đoạn, cứ đến hết tập 20 lại đọc lại từ đầu, đến mức sau này thuộc lòng từng chữ, mẹ đọc sai, đọc thiếu còn nhắc.

Đến khi phim chiếu trên vô tuyến, trẻ con có đứa nào là không háo hức được xem. Nhưng mà hầu hết toàn đám nhà nghèo, ăn còn phải độn thì nói gì đến việc có riêng vô tuyến, chỉ có cách đi xem nhờ mà thôi. Khổ nỗi giờ chiếu phim là khoảng 6h, giờ ăn cơm, vậy là tập được tập mất. Cũng may mà các nhà làm phim thương trẻ con nghèo, mỗi tập là xong một yêu quái nên có mất tập này tập nọ vẫn hiểu được, mặc dù vẫn cứ tưng tức vì được xem đủ hành trình của bốn thầy trò đi thỉnh kinh.

Thế rồi một ngày nọ, bố mang về một điều thần kỳ mang tên vô tuyến. Yên tâm là từ giờ thoải mái xem mà không phiền ai. Thế nhưng để xem được cũng lại là một vấn đề. Cái vô tuyến cũ, bắt sóng dở quá, lúc nét lúc nhiễu. Kinh nghiệm học được từ bố mẹ là sau một hồi xoay ăng ten không được thì đập vào hai bên là hết. Buổi chiều nọ, có mỗi mình và bà nội ở nhà, đang đúng đến đoạn đánh yêu quái thì nhiễu. Lúc ấy làm gì còn kiên nhẫn mà xoay này nọ, cứ đập vào cái vô tuyến khốn khổ. Chẳng dè trot mạnh tay, đập thụt luôn cái loa vào bên trong. Quả là hiệu nghiệm, hình lại nét như cũ, nhưng làm gì còn dám xem nữa, chỉ lo thò tay vào trong mà kéo miếng vỡ ra lắp lại, chỉ sợ về bị đòn. Nghĩ lại vẫn thấy sợ, may mà hồi ấy không bị điện giật…Đến lúc bố mẹ về, nghe chuyện chỉ cười, rồi bố lại lụi cụi tháo ra lắp lại…

Kể cũng buồn cười, sau bao nhiêu năm, mãi đến giờ mới đọc được đầy đủ bộ Tây du ký truyện chữ. Vốn có cả hai bản dịch của NXB Văn học, nhưng sau khi tham khảo ý kiến Superman, mình quyết định đọc bản 5 tập. Đọc mới thấy trí tưởng tượng của Ngô Thừa Ân thật phong phú, nhiều chi tiết phim buộc phải làm khác đi bởi không thể thực hiện được giống truyện. Phục nhất là khả năng viết của ông, ngôn từ của truyện trong sáng, dễ đọc dễ hiểu, mà các đoạn tả cảnh đa phần là thơ phú. Dù đã xem phim, nhưng đọc truyện vẫn có cái thú riêng mà phim không bao giờ đạt được.

Gắn bó với Tây du ký như vậy nên giờ mỗi khi nghe lại nhạc của phim lại thấy nhơ nhớ. Nhiều người hỏi tại sao lớn rồi vẫn đọc Tây du, chỉ cười mà chẳng biết thanh minh thế nào cho người ta hiểu rằng tuổi thơ vẫn luôn ở đó dù mình không còn nhỏ nữa.


Một sử liệu khác về Quỳ hoa bảo điển:

Trăng đêm nay sáng quá, cái lò gạch cũ nát như được dát một lớp vàng mỏng lung linh như lâu đài trong huyền thoại. Hắn ngồi tựa lưng vào chồng gạch vỡ, trước mặt là chai rượu nút lá chuối và đĩa chuối xanh như thường lệ. Nhưng trong đầu hắn tịnh không có chút hơi men nào. Tinh thần tiến nhập cảnh giới “tỉnh trung nguyệt”.

Vì trên tay hắn là “Quỳ Hoa Bảo Điển”, báu vật danh trấn võ lâm. Không hiểu sau Bá Kiến lại đưa cho hắn vật chí bảo này. Lẽ nào muốn một tay gây dựng hắn thành tên tay sai độc bá võ lâm chăng?
Miệng hắn nở một nụ cười lãnh khốc, chầm chậm nói với chính mình:
- Một khi luyện thành thân võ công vô địch, tá há lại ngu xuẩn để cho nhà người tiếp tục thao túng sao?

Trong giờ phút trọng yếu đó, bàn tay không ngờ lại ổn định phi thường, lật giở trang bảo điển đầu tiên.

CHƯƠNG 1

Võ công sơ nhập, rạch mặt 10 vết.

Hắn, mặc dù không mẹ không cha, nhưng vốn là một mỹ nam tử anh tuấn nhất cái làng Vũ Đại này, chẳng thế mà bà Ba vẫn thường đá lông nheo với bắt hắn bóp chân, lại cứ giục bóp lên trên, lên trên nữa… Mười vết rạch đủ để huỷ đi toàn bộ dung nhan… Nhưng mặt đẹp thì làm gì chứ, không thể giết người, không làm ai sợ, vô phương biến cải vận mệnh…

Máu chảy ra, một dòng, hai dòng, nhiều dòng….


CHƯƠNG 2

Võ công trung cấp, dẫn đao tự cung (1 trứng là đủ)

Mười ngày qua, hắn mê man trong biển võ học bác đại tinh thâm của Quỳ Hoa Bảo Điển, thật là một ngày tiến ngàn dăm. Mất một trứng thì có sá gì, khoa học đã chứng minh là không ảnh hưởng hiều đến khả năng sinh sản. Cửa ải trung cấp nhỏ xíu này, thật còn đơn giản hơn là rạch mặt

Ánh đao loé lên, nhanh, chuẩn, độc…


CHƯƠNG 3

Võ công cao cấp, dẫn đao tự cung (1 trứng là đủ)

Hắn cười khổ. Một trứng là đủ, khốn nỗi hắn cũng chỉ còn có 1. Giá mà Bảo điển yêu cầu đi lấy trứng của thằng khác thì đơn giản quá. Với võ công bây giờ của hắn, dư sức lấy của 90% đàn ông làng Vũ Đại… Làm sao bây giờ.

Hắn bỗng cười nhạt, tự soi gương đi Chí ơi, nghèo hèn như thế, mặt rạch tan nát như thế, còn mong có vợ con, gia đình hay sao?

Đao khí hữu hình, như mãnh long xuất động, một đi không về….


CHƯƠNG 4.

Quỳ Hoa Bảo Điển

Nhà xuất bản Tuổi Trẻ

In 10.000 cuốn, in xong và nộp lưu chiểu tháng … năm…

Copyright: Bá Kiến. Cấm in sao lại dưới mọi hình thức khi chưa được phép của tác giả.


Hắn thẫn thờ không tin vào mắt mình nữa. Bí kíp là thế này sao…

Hắn đã mất đi tất cả, chỉ còn cái lò gạch cũ…

Tiên sư thằng Bá Kiến, làm thế nào để tao lại trở thành người lương thiện được đây…

Tiếng chân chạy như điên cuồng, ánh đao như chớp giật, sát khí ràn rụa…

Khi dân làng chạy đến, Bá Kiến và Chí Phèo đã tắt thở. Trên khuôn mặt sẹo chằng chịt còn đọng lại một nụ cười thanh thản….


Hôm nay lên GĐ chả học hành gì, tụ tập anh em làm 1 cuộc “Hoa Sơn luận kiếm”. Có người nhắc tới bộ Uất hận thần chưởng, theo như lời thuật chính là dị bản của Quỳ hoa bảo điển. Nay xin post lên đây để hầu chư vị chưa có dịp thưởng thức. Bản này được tái bản có sửa chữa và bổ sung năm 2008:

Quỳ hoa bảo điển

Vào một ngày cuối thu, khi những chiếc lá vàng cuối cùng còn trôi theo dòng nước, gió lạnh thổi về báo hiệu một mùa đông sắp tới. ĐPBB lang thang một mình, dáng vẻ đìu hiu u uất…Y vừa mới bị đám anh hùng hảo hán trong Nhật Nguyệt thần giáo “ăn hiếp”…Khổ thế đấy, ai bảo hắn đẹp trai…

Hắn buông mình ngồi lên một tảng đá để nghỉ chân….”Giá như có ly rượu lúc này thì hay biết mấy” – hắn tự nhủ. Bổng nhiên, RẦM !!!, hòn đá hắn ngồi đổ nhào qua một bên, làm hắn té cái đùng….”Chắc tại sắp đông, khí trời ẩm ướt…nên mới có cớ sự như vậy”. Hắn đứng dậy phủi quần áo. “Khiếp, hôm nay là ngày gì mà xui thế” – hắn chảnh với chính mình….Rồi vật gì vuông vuông đen đen, làm cho hắn chú ý…
“Quái lạ, sao ai lại để chiếc hộp dưới tảng đá thế này…Chẳng lẽ là bảo vật”. Hix, sinh ra trong cảnh bần hàn, hắn nổi lòng tham, bèn đưa tay mở chiếc hộp. “Quỳ hoa bảo điển”….Hắn đứng sững…Trước mặt hắn là Thiên hạ đệ nhất bí kíp mà người đời hằng ao ước…”Ông trời quả không phụ ta” – “Phát tài rồi”…

Hắn chạy thật xa, thật xa, tới một nơi không ai hay biết, và bắt đầu luyện thiên hạ đệ nhất kì cục bí kíp….
Hắn mở trang đầu tiên, trong đó có ghi
“BÍ KÍP ĐƯỢC CHIA LÀM 4 PHẦN, HÃY LÀM THEO HƯỚNG DẪN TỪNG BƯỚC MỘT. NẾU KHÔNG QUA PHẦN 1, CẤM KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC PHẦN 2, BẰNG KHÔNG KHÔNG SẼ BỊ TẨU HOẢ NHẬP MA”
Hắn gật đầu răm rắp, “Dạ dạ, em biết rồi….”-Trăng vừa lên, hắn bắt đầu mở chương thứ nhất.

CHƯƠNG THỨ 1: TỰ CUNG TRƯỚC KHI LUYỆN QUỲ HOA BẢO ĐIỂN
“Đau lòng, chẳng lẽ từ nay ta sẽ không có cháu truyền con nối sao, ta sẽ không có vợ có con nữa sao….Nhưng đời đối với ta quá bạc, kẻ kẻ người người khinh rẻ ta, ta phải báo thù…thôi kệ, chỉ cần luyện thành công võ công này, ta sẽ trở thành vô địch thiên hạ”

Và hắn đã không còn là đàn ông trong chính thời khắc đó. 2 tuần sau, vết thương đã lành, hắn bắt đầu mở chương thứ 2.

CHƯƠNG THỨ 2: THỰC RA KHÔNG TỰ CUNG CŨNG ĐƯỢC

Như sét đánh bên tai, hắn đứng sững, cười ha hả, rồi quỵ xuống…Khi hắn tỉnh dậy đã là ngày thứ 3. “Dù sao đi chăng nữa cũng không được bỏ cuộc, mọi chuyện đã rồi…” Nhất quyết phải luyện thành công …. Hắn lật chương thứ 3

CHƯƠNG THỨ 3: CÓ TỰ CUNG CŨNG CHƯA CHẮC THÀNH CÔNG

Đầu óc quay cuồng, như muốn nổ tung….Hai hàng nước mắt đầm đìa chảy xuống, miệng cười ha hả, nước miếng bắn tùm lum, trong thật lạ mắt….Lúc đó Tạ tốn đang luyện Thất thương quyền gần đó, mục kích được, nên mới rõ ràng tường tận như vậy.

Hắn não nề, cố nén thương đau, mở chương cuối cùng, cũng là chương cảnh giới cao nhất. Hy vọng vẫn còn trong hắn, một chút…nhưng vẫn là hy vọng….

CHƯƠNG THỨ 4 : TỰ CUNG RỒI THÌ VÀO CUNG LÀM THÁI GIÁM

Chỉ thấy gió thổi lá bay, không gian cuồng loạn, Thiên trường địa cửa đáo trường ai…..Gió thổi mây bay, hư vô là thế, chạy theo danh lợi, rồi cũng bỗng chốc hoá hư không….


28/04
2009

Chiều nay thì đại ca đã chính thức lên xe hoa với vợ  Chúc mừng bác và chị gái. Giờ em post nốt bài thơ đối lại với bài Kết thúc từ đây. Một ngày không xa sẽ đưa lên forum, nhưng giờ cứ để tạm đây đã 


Bắt đầu từ đó

Anh ơi anh nghĩ thế nào
Cớ sao lại sợ dính vào vợ con ?
Vợ con là cái lồng son
Không con không vợ, héo hon gầy mòn !
Vợ nuôi béo đỏ béo tròn
Tự do … với vợ (!) vẫn còn đấy thôi
Có gì mà kể ỉ ôi
Gì mà phân biệt bố tôi bố bà !
Thân trai bốn bể là nhà
Con là chủ tịch, vợ là … bí thư
Ðộc thân rất dễ thân hư
Lang thang cho lắm, ung thư có ngày (!)
Sao bằng tối tối gác tay
Tỉ tê tâm sự, “mày mày tao tao”
(Í quên em nói tào lao
“Anh ơi, em hỡi” xiết bao là tình )
Ngày xưa còn ở một mình
Ai chẳng mơ được lưới tình dính vô
Một vợ bằng mấy lần bồ
Lại được rửa chén, giặt đồ sướng ghê !!!
Ðộc thân đừng tưởng gái mê
Nó mê cái ví, còn … dê đừng hòng !
(Ngày xưa khi chửa có chồng
Dụ đó em thuộc nằm lòng đó anh)
Anh ơi lấy vợ cho nhanh
Tiền lương khỏi giữ, cơm canh sẵn sàng
Khỏi lo tiêu phí tiêu hoang
Vợ quản bằng mấy ngân hàng anh ơi
Nhậu chi cho uổng cuộc đời
Quét nhà, rửa chén thảnh thơi nào bằng
Vợ gọi : Dạ mới ga lăng
Muốn chửi thì đã có thằng cu con
Anh ơi em mở lồng son
Anh mau vào sớm để còn … nộp lương


Sau một thời gian dài tìm kiếm, mất nhiều công sức, cuối cùng tớ đã tìm được đủ bộ Nghìn lẻ một đêm!

Nói tới Nghìn lẻ một đêm thì chắc chắn ai cũng biết, vì ít nhiều người ta cũng đã đọc một, hai truyện trong bộ này, chưa kể hàng chục bản khác nhau được dịch và xuất bản đầy ra đó. Vì thế cái chuyện vui mừng của tớ xem ra là khó hiểu. Mong mọi người cứ bình tâm nghe tớ giải thích đã.

Nghìn lẻ một đêm vốn là một bộ sách tập hợp truyện dân gian của người Ả rập. Người đầu tiên khiến cả thế giới biết tới bộ sách này là học giả người Pháp Antoine Galland (1646-1715). Ông vốn là người giúp việc cho sứ thần Pháp tại Constantinople (nay là Istanbul – Thổ Nhĩ Kỳ). Do vậy, ông có dịp đi lại nhiều lần ở các nước vùng Tây Á và thông thạo ngôn ngữ, văn hóa khu vực này. Trở về Paris, tình cờ đọc được bản chép tay bảy truyện cổ Ả rập, ông dịch và cho xuất bản. Khi sách sắp in thì dịch giả lại biết những truyện này được rút ra từ “một pho đồ sộ gồm nhiều truyện tương tự, chia thành nhiều tập, đề là Nghìn lẻ một đêm”(1) . Ông nhờ người tìm mua hộ và dịch. Trong các năm 1704-1709, mười hai tập sách lần lượt ra đời, nhận được sự mến mộ của mọi tầng lớp trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Bản của Galland được dịch ra hàng loạt ngôn ngữ khác như Anh, Hà Lan, Đức, Ý, Tây Ban Nha… và trở nên phổ biến ở trên khắp châu Âu. Sau đó có rất nhiều học giả khác đã dịch trực tiếp Nghìn lẻ một đêm từ tiếng Ả rập ra tiếng mẹ đẻ của mình, mỗi học giả sử dụng các nguồn tư liệu khác nhau. Mới nhất, có thể kể đến bản The Arabian Nights: Tales of 1,001 Nights của Malcom C.Lyons và Ursula Lyons, xuất bản tháng 11 năm 2008. Điểm khác nhau cơ bản giữa Galland với những người khác là tuy dịch đủ các truyện, ông lược bỏ những đoạn tán tỉnh, mơn trớn, miêu tả tình dục cùng những câu thơ, lời hát trong truyện mà chỉ giữ lại phần cốt truyện chính thôi(2). Ngoài ra còn một điều khá thú vị là hai truyện rất nổi tiếng Aladin và cây đèn thần, Alibaba và bốn mươi tên cướp vốn không có trong bất kỳ văn bản tiếng Ả rập gốc nào. Galland nói rằng ông nghe những truyện này từ một người ông gọi là Hanna Diab tại Aleppo, Syria.

Đó là thông tin về các bản dịch của nước ngoài. Còn bản dịch ra tiếng Việt thì sao?

Bản tiếng Việt cũ nhất mà tớ được biết là của cụ Trần Văn Lai(3) do Tân Việt xuất bản năm 1942.

Một bản khác được biết đến nhiều hơn là bản của NXB Văn học, gồm 10 tập, xuất bản trong 9 năm liền từ 1982 đến 1989. Năm tập đầu dịch từ bản Contes des Mille et une nuits của Antoine Galland, NXB Frères Garnier – Paris 1982, do Phan Quang dịch. Năm tập sau dịch từ bản Mille nuits et une nuit của bác sĩ J.C.Madrus, NXB Charpentier et Fasquelle – Paris 1925, do nhóm Nguyễn Trác, Đoàn Hồng, Nguyễn Đăng Châu, Tấn Khang dịch(4). Bộ sách này được thực hiện khá công phu và cẩn thận nên dân đọc sách rất thích. Tuy vậy, do có nhiều tập, lại xuất bản trong thời gian dài nên việc tìm được đủ bộ quả là khó khăn. May mắn làm sao, qua một người bạn, tớ không chỉ tìm được cả 10 tập mà sách còn rất mới nữa.

Sau này có rất nhiều bản dịch khác. Trong số đó đáng chú ý hai bản, đều có 10 tập, in khổ nhỏ, một của NXB Văn nghệ, bản còn lại tớ không chắc chắn, hình như của NXB Văn hóa thông tin thì phải. Rất tiếc là tớ chưa bao giờ đọc trọn vẹn 2 bản này mà chỉ được xem qua lúc còn bé nên hoàn toàn không thể đưa ra nhận xét gì nhiều. Tất cả các bản còn lại đều mang tính chọn lọc các truyện hay nhất, và thường sẽ được biên tập để cho trẻ con đọc. Vì vậy giá trị văn học và nghiên cứu hầu như không có.

Đọc đến đây chắc bạn đã hiểu lý do tớ vui mừng đến thế rồi. Tớ chỉ xin bổ sung them một ý nữa thôi. Khi mới đi tìm bộ sách này, tớ có lên amazon check thử. Bản dịch mới nhất của Malcom C.Lyons và Ursula Lyons có giá quá đắt so với một sinh viên, và tuy xuất bản tháng 11 năm 2008, hiện tại sách đã hết. Các bản còn lại đều là chỉ là trích dịch mà thôi. Vì thế việc tìm được một bản dịch đầy đủ, dù là tiếng nước ngoài cũng thật khó khăn.

Chia sẻ cảm xúc thế này có lẽ là dông dài quá rồi. Rất cám ơn bạn đã chịu khó đọc đến hết cái entry này. Thật đáng tiếc vì tớ không có máy ảnh nên chẳng làm thế nào để chụp hình bộ sách của mình cả. Đành mượn tạm hình chụp của nick chuthoong tại diễn đàn buonsach làm hình minh họa.

_________________________________

(1) Theo thư của Galland gửi phu nhân hầu tước O. in ở đầu bản dịch tiếng Pháp

(2) Trong “Nghìn lẻ một đêm” có khá nhiều chi tiết bỡn cợt luân lý, khêu gợi hoặc thách thức những điều cấm kỵ. Antoine Galland trong quá trình biên soạn và dịch đã phải lược bỏ những đoạn quá “nhạy cảm” đối với văn hóa phương Tây thời đó. Mặt khác, cách kể chuyện tuy quyến rũ nhưng cũng khá dài dòng. Chẳng hạn, có khi đôi trai gái đang yêu tán tỉnh nhau hàng vài trang giấy, đại khái chàng trai thì khen cô gái có làn da làm bằng hổ phách ướp mật ong và xạ hương, mái tóc dài và phức tạp không kém gì sông Nil, đôi mắt sâu thăm thẳm như một cái giếng không đáy được được dát bạc và kim cương, cô gái thì thì thấy chàng trai như một vị thần đi đến đâu hào quang tỏa ra đến đấy, cánh tay vừa chắc như đồng, vừa êm như nhung, giọng nói trầm hùng mà ngọt ngào như 999 cái chuông đồng… Còn tình yêu của họ thì, ôi thôi, đẹp như loài hoa xyz nghìn năm mới nở một lần, huy hoàng như ánh dương trong đêm đen, mượt mà như tơ lụa Đamát…(dangphuong – thuvien-ebook)

(3) Bác sĩ Trần Văn Lai là thị trưởng đầu tiên của thành phố Hà Nội thời chính phủ Trần Trọng Kim. Ông được xem là người có công trong việc tìm ra cách đặt tên phố phường Hà Nội một cách hợp lý và khoa học. Tuy nhiên, cũng chính ông là người đã ra lệnh phá bỏ các tượng đẹp của Pháp ở Hà Nội, trong đó có bức tượng Bà đầm xòe ở vườn hoa Cửa Nam. Bức tượng này có hình dáng giống hệt với tượng Nữ thần Tự do ở New York.

(4) Cho đến giờ, tớ vẫn không rõ vì lý do gì mà bộ sách lại được thực hiện như vậy. Tình trạng này trước đây rất hiếm. Chỉ đến bây giờ mới biến thành một vấn đề đáng quan tâm.


Rút kinh nghiệm với Charlotte và Wilbur và 12 Monkeys, xem rồi để đó, cảm xúc cứ mờ dần, mãi không viết được, lần này đọc xong Đại gia Gatsby buổi chiều, tối phải ngồi viết luôn.

Một vài suy nghĩ của tớ về cuốn sách này:

1. Dịch giả Trịnh Lữ coi đây là cuốn sách nói về sự thật của giấc mơ Mỹ. Tớ thì nghĩ cần bàn nó rộng hơn một chút trước đã.

Trước hết, rõ ràng giàu có là giấc mơ của mọi người, thuộc mọi dân tộc trên Trái Đất này. Chẳng phải một motif quen thuộc trong truyện cổ tích các nước là một người nghèo, sau hàng loạt biến cố, sẽ trở nên giàu có/ thành vua…và cưới được cô gái xinh đẹp/tiên/công chúa? Đấy, con người ta từ thửơ còn sơ khai, vẫn luôn mơ ước đổi đời đó thôi?!

Thế nhưng có một điều buồn cười là trong rất nhiều tác phẩm văn học từ cổ điển tới hiện đại sau này, những nhân vật mong muốn giàu có, lại thường phải chấp nhận làm những việc không lấy gì làm cao đẹp. Chẳng hạn như gã Dizma trong Đường công danh của Nikodem Dizma làm đủ mọi trò lừa đảo hại người để ngoi được vào giới thượng lưu, thoát khỏi cảnh đói nghèo cùng cực. Hay là Raphael de Valentin trong Miếng da lừa, vì tiền bạc, quyền lực, anh sẵn sang chấp nhận trả giá bằng tuổi đời của mình. Những nhân vật này, nhẹ nhất thì bị xem là phản diện (Dizma), nặng hơn thì sẽ là cái chết (Raphael de Valentin). Hình tượng kiểu ấy có quá nhiều trong văn học. Phải chăng hy vọng đổi đời lại khó đến mức người ta phải trả những cái giá quá đắt cho nó ?

Quay lại với giấc mơ Mỹ. Tớ vẫn nhớ lời thầy dạy Vật Lý hồi cấp III. Ông cho rằng những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ là những người rất nghèo, nhưng cực kỳ can đảm, bởi họ dám mạo hiểm đi tìm miền đất mới thay vì ngồi nhà sống qua ngày. Có thể khời nguồn của giấc mơ Mỹ chính là từ đây. Dịch giả Trịnh Lữ cũng có nhận định tương tự, và ông còn rất công phu khi dẫn ra Tuyên ngôn và Quốc ca Hoa Kỳ để rút ra nhận định rằng Giấc mơ Mỹ là cái hứa hẹn rằng chỉ có ở nước Mỹ lời tuyên cáo hùng hồn ấy mới có cơ hội trở thành hiện thực đối với tất cả những ai có can đảm theo đuổi nó đến cùng; vì chỉ ở Mỹ con người mới có bình đẳng về cơ hội.

Có điều sau đó, ông lại cho rằng cái giấc mơ ấy thật rỗng tuếch, vì cái sự bất bình đẳng về “chuẩn mực nhân cách cơ bản” (lời của truyện). Đoạn này thì tớ không đồng ý. Giấc mơ là những mục tiêu ở rất xa mà con người luôn hướng tới. Vì thế, việc nó có thành hiện thực hay không phụ thuộc vào chính nó cũng như cách mà người ta tìm cách thực hiện. Và điều làm cho một giấc mơ bị vấy bẩn chính là sự bất bình đẳng về “chuẩn mực nhân cách cơ bản”. Còn bản thân giấc mơ, nó đâu thể rỗng tuếch, khi nó mang ước vọng chính đáng của bao thế hệ người.

2. Thú thật là tớ biết Trịnh Lữ muốn dịch The Great Gatsby thành Đại gia Gatsby trước khi sách được xuất bản. Lúc đó quả thật tớ rất bất ngờ và thấy khó chịu với dịch giả này. Trước đây, The Great Gatsby đã từng được xuất bản với tên Con người hào hoa ở Sài Gòn trước 75, sau này lại được xuất bản lần nữa với tên Gatsby vĩ đại. Căn cứ vào hai lần này, tớ, người chưa biết gì về tác phẩm, đoán nhân vật Gatsby này quả có điểm gì đó cao quý thật. Vì thế cái tên Đại gia Gatsby thật sự gây phản cảm cho tớ.

Sau khi đọc tác phẩm, với bản thân tớ, điểm sáng duy nhất trong tính cách Gatsby chính là tình cảm của ông với Daisy. Tình cảm ấy thật sự sâu sắc và cao đẹp. Nó đã chẳng làm ông thay đổi đến vậy đó thôi? Vậy là tớ vẫn đoán đúng. Nhưng cũng chỉ có thế. Với điểm sáng duy nhất ấy, quả là khó mà gán cho Gatsby 2 chữ vĩ đại, hay là cái cụm từ con người hào hoa đầy hoa văn kia. Mặc dù không thật sự đồng ý lắm với từ đại gia mà Trịnh Lữ gán cho, tớ vẫn không tìm ra từ nào thích hợp hơn cả. Tạm thời đồng ý với dịch giả.

3. Đại gia Gatsby quả là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời và được chuyển ngữ bởi một dịch giả cũng thật tuyệt vời. Truyện lôi cuốn bởi văn phong độc đáo của nó, nuột nà, trong vắt như một dòng nước suối mát lạnh chảy vào tận trái tim nóng hôi hổi của người đọc. Tác giả chắc chắn là người có công lớn nhất, nhưng nếu không có sự cẩn thận và tinh tế khi lựa chọn ngôn từ của Trịnh Lữ thì e rằng sự tuyệt vời của truyện sẽ giảm đi đáng kể. Ấy mới là dịch. Phần chú giải lại càng làm người ta thích thú. Ngắn gọn nhưng đầy đủ, chính xác nhưng không lạnh lùng. Mỗi chú giải như chất chứa đầy tình cảm, trăn trở của chính dịch giả, như chia sẻ cảm nhận, kiến thức của ông với người đọc. Như thế có khác gì vừa đọc sách vừa đàm đạo với chính Trịnh Lữ vậy. Thú vị vô cùng!!! Với tấm lòng của một người yêu văn, xin cảm ơn ông – một dịch giả tài hoa.


Trang 3 trên 4«1234»

Trang chủ | Ảnh | Bài viết | Về tôi | Login

© 2012 NNSon.com - Xin ghi rõ nguồn khi phát hành lại thông tin.